Tiếp tục thúc đẩy thực hiện dân chủ ở cơ sở thông qua mô hình quản trị nhà chung cư
Quyền dân chủ chính là những yêu sách, nhu cầu nội tại của mỗi cá nhân, với tư cách là công dân đối với các nguyên tắc, các chuẩn mực pháp lý dân chủ trong một thiết chế xã hội dân chủ nhằm bảo đảm sự tham gia một cách tự do, bình đẳng và đầy đủ vào các công việc của Nhà nước và toàn bộ đời sống xã hội của con người. Quyền dân chủ trước hết là quyền con người; hơn nữa, nó nhấn mạnh đặc biệt đến các quyền về chính trị như là khả năng và điều kiện tiên quyết để thực hiện đầy đủ các quyền con người cơ bản khác. Thực hiện dân chủ phải ngày càng gần dân, sát dân và gắn với cơ sở. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã nhấn mạnh nhiệm vụ: “Tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa, thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, trong đó có chủ trương “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Chủ trương này về cơ bản đã được thể hiện khá rõ trong Luật THDCCS năm 2022.
Có thể thấy, mô hình quản trị nhà chung cư đã góp phần vào việc thực hiện dân chủ ở cơ sở. Bởi vậy, Luật THDCCS năm 2022 đã có những quy định khá gần gũi với mô hình này (nguyên tắc, hình thức công khai thông tin; nhân dân bàn, quyết định; quy trình bầu, hoạt động của trưởng thôn/tổ trưởng tổ dân phố…). Thông qua việc nghiên cứu mô hình quản trị nhà chung cư có thể rút ra một số bài học có ý nghĩa tiếp tục thúc đẩy THDCCS thông qua các tổ chức Ban quản trị (BQT) và Ban kiểm soát cộng đồng (BKSCĐ):

* Hình thức công khai, minh bạch thông tin ở cơ sở có thể áp dụng linh hoạt. Nhu cầu và đối tượng tiếp nhận thông tin ở các chung cư trong thành phố lớn rất khác với ở thôn, bản khu vực nông thôn.
* Cộng đồng dân cư đô thị sinh sống tại các tòa chung cư mang những đặc điểm và mối quan tâm đặc thù của cư dân đô thị với lợi ích gắn kết chặt chẽ. Do vậy, mô hình BQT cần được nghiên cứu kỹ lưỡng để phát huy hiệu quả cơ chế thực hiện dân chủ ở cơ sở.
* Mọi thành viên trong cộng đồng dân cư đều có thể tham gia ý kiến với BQT chung cư. Điều này cho phép BQT tập hợp được tiếng nói đa dạng của người dân trong quá trình quản trị, từ đó tìm kiếm sự đồng thuận đối với những vấn đề cụ thể của chung cư.
* Hình thức tương tác chủ đạo của BQT và BKSCĐ là công khai thông tin qua các phương tiện dễ tiếp cận (bảng tin của tầng hoặc của tòa nhà, mạng xã hội), lấy ý kiến cư dân và họp biểu quyết. Tính tổ chức đơn giản, hình thức hoạt động trực tiếp, thân thiện với người dân là những yếu tố quan trọng cho hoạt động hiệu quả của BQT và BKSCĐ.
* Cần có sự độc lập rõ ràng về nguồn ngân sách, quyền lợi giữa thiết chế giám sát và đối tượng được giám sát để bảo đảm sự vô tư, khách quan trong quá trình hoạt động. Một số các thiết chế giám sát được thành lập bởi Nhà nước chưa đạt hiệu quả cao là do chưa có sự độc lập này.
* Do đặc thù và nhu cầu thực tế của nhóm dân cư đô thị, tính bền vững của mô hình BQT được đánh giá cao nhờ nguồn lực được bảo đảm từ đóng góp của cư dân.
* BQT và BKSCĐ là những thiết chế quan trọng trong việc tổ chức, vận hành nhà chung cư cũng như thúc đẩy sự tham gia, thực hiện dân chủ của cư dân bởi nó rất “sát” với người dân. BQT có thể được xem là một tổ chức dân chủ cơ sở, nhưng các quyền hạn, trách nhiệm, nhiệm vụ luật định lại như một tổ chức chuyên môn. Do đó, tại nhiều chung cư, BQT khó “gánh” nổi và làm tròn trách nhiệm. Vì vậy, cần thiết nghiên cứu điều chỉnh quy định về quyền hạn, trách nhiệm, nhiệm vụ của BQT để bảo đảm hiệu quả vận hành của thiết chế này trong thực tế.
* Vấn đề cơ chế phối hợp giữa các thiết chế ở cơ sở (thôn, tổ dân phố) như Tổ dân phố, Ban Công tác Mặt trận, các Hội đoàn thể với một số thiết chế khác ở cơ sở, có tính đặc thù (như BQT, BKSCĐ nhà chung cư…) vô cùng quan trọng, có thể góp phần bảo đảm, thúc đẩy quyền làm chủ của người dân ở cơ sở.
Bên cạnh những bài học nêu trên, pháp luật cần được tiếp tục hoàn thiện theo hướng kiểm soát tốt hơn mô hình vận hành BQT của nhà chung cư và cần định danh rõ thiết chế BKSCĐ để tạo điều kiện cho việc thực hành dân chủ. Pháp luật về THDCCS cần tiếp tục nâng cao sự đa dạng, linh hoạt trong việc ghi nhận, bảo đảm vận hành các mô hình, thiết chế THDCCS. Đồng thời, pháp luật cần có giới hạn/điểm dừng và chỉ ban hành pháp luật khi thực sự cần thiết. Điều này phải trở thành một yêu cầu quan trọng trong Nhà nước pháp quyền.